USDA đã công bố Báo cáo Tóm tắt Sản lượng Cây trồng Hàng năm, Ước tính Cung và Cầu Nông nghiệp Thế giới (WASDE), Dự trữ Ngũ cốc và Gieo hạt lúa mì mùa đông ngày 1 tháng 12 vào thứ Sáu.
USDA cắt giảm sản lượng ngô trung bình toàn quốc xuống 3,8 giạ mỗi mẫu Anh (bpa). Nó đã tăng diện tích thu hoạch một cách khiêm tốn, dẫn đến việc cắt giảm 276 triệu giạ (mb) để sản xuất. Ở mức 14,867 tỷ giạ (bb), tổng sản lượng ngô của Mỹ thấp hơn nhiều so với kỳ vọng trước báo cáo.
USDA đã cắt giảm sản lượng đậu tương năm 2024 1 giạ mỗi mẫu Anh xuống còn 50,7 thùng/năm. Nó cũng giảm diện tích thu hoạch từ 86,3 triệu xuống 86,1 triệu mẫu Anh, dẫn đến tổng sản lượng 4,366 tỷ giạ. Con số này ít hơn 95 triệu giạ so với dự báo của tháng 11 và thấp hơn phạm vi kỳ vọng trước báo cáo.
NGÔ
- Sản lượng ngô cho niên vụ 2024-25 được hạ xuống còn 14,867 tỷ giạ, giảm 276 triệu giạ so với tháng trước. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã giảm năng suất trung bình toàn quốc xuống còn 179,3 giạ/mẫu, giảm 3,8 giạ/mẫu. Diện tích thu hoạch được tăng thêm 200.000 mẫu lên mức 82,9 triệu mẫu.
- Về nhu cầu, dự báo tổng sử dụng cho chăn nuôi và tiêu hao là 5,775 tỷ giạ, giảm 50 triệu giạ so với tháng trước. Nhu cầu ethanol dự kiến ở mức 5,5 tỷ giạ. Tổng tiêu dùng nội địa được dự báo là 12,665 tỷ giạ, giảm 50 triệu giạ.
- Xuất khẩu ngô được đặt ở mức 2,45 tỷ giạ, giảm 25 triệu giạ so với tháng 12.
- Tồn kho cuối kỳ của niên vụ 2024-25 được dự báo ở mức 1,54 tỷ giạ, giảm 198 triệu giạ, thấp hơn mức trung bình trước báo cáo.
- Báo cáo Tồn kho Ngũ cốc hàng quý cho thấy lượng tồn kho ngô tính đến ngày 1/12/2024 là 12,1 tỷ giạ, giảm 1% so với năm ngoái và thấp hơn mức trung bình trước báo cáo. Trong tổng lượng tồn kho, 7,66 tỷ giạ được lưu trữ tại các trang trại, giảm 2% so với năm ngoái. Tồn kho ngoài trang trại đạt 4,41 tỷ giạ, tăng 2% so với năm trước. Lượng sử dụng trong quý từ tháng 9 đến tháng 11 đạt 4,56 tỷ giạ, so với 4,53 tỷ giạ cùng kỳ năm ngoái.
- Giá tại trang trại cho niên vụ 2024-25 là 4,25 USD/giạ, tăng 15 cent.
- Trên toàn cầu, tồn kho đầu kỳ niên vụ 2024-25 đạt 317,46 triệu tấn, tăng 1,24 triệu tấn so với tháng trước. Tồn kho cuối kỳ toàn cầu được dự báo ở mức 293,34 triệu tấn, giảm 3,1 triệu tấn. USDA giữ nguyên dự báo sản lượng ngô của Brazil ở mức 127 triệu tấn nhưng hạ xuất khẩu 1 triệu tấn xuống 47 triệu tấn. Argentina được dự báo sản lượng ở mức 51 triệu tấn, với xuất khẩu đạt 36 triệu tấn.
- Đối với niên vụ 2023-24, USDA cũng giữ nguyên sản lượng ngô của Brazil ở mức 122 triệu tấn nhưng hạ xuất khẩu 2 triệu tấn xuống còn 39,5 triệu tấn. Dự báo sản lượng ngô của Argentina ở mức 50 triệu tấn, nhưng xuất khẩu được tăng thêm 1 triệu tấn lên 34 triệu tấn.
ĐẬU TƯƠNG
- USDA giảm năng suất đậu tương niên vụ 2024 xuống 50,7 giạ/mẫu, giảm 1 giạ/mẫu. Diện tích thu hoạch giảm từ 86,3 triệu xuống 86,1 triệu mẫu, khiến tổng sản lượng đạt 4,366 tỷ giạ, giảm 95 triệu giạ so với dự báo tháng 11 và thấp hơn mức kỳ vọng trước báo cáo.
- Việc giảm sản lượng là nguyên nhân chính dẫn đến dự báo tồn kho cuối kỳ niên vụ 2024-25 thấp hơn, giảm 90 triệu giạ xuống còn 380 triệu giạ. USDA dự báo nhập khẩu tăng 5 triệu giạ và sử dụng tiêu hao tăng 1 triệu giạ.
- Giá trung bình tại trang trại vẫn không đổi ở mức 10,20 USD/giạ.
- Theo báo cáo Tồn kho Ngũ cốc hàng quý, lượng cung đậu tương trong kho là 3,1 tỷ giạ, tăng 3% so với năm 2023. Lượng tồn kho tại các trang trại đạt 1,54 tỷ giạ, tăng 6% so với năm trước. Tồn kho ngoài trang trại đạt 1,56 tỷ giạ, tăng 1%. Lượng sử dụng trong quý đạt 1,61 tỷ giạ, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái.
- Toàn cầu, tồn kho cuối kỳ niên vụ 2024-25 giảm 3,5 triệu tấn xuống còn 128,37 triệu tấn, phản ánh sự thay đổi trong nguồn cung của Mỹ. Dự báo nhập khẩu tăng 1,06 triệu tấn và nghiền tăng 1,87 triệu tấn. Sản lượng tại Brazil và Argentina không đổi, lần lượt ở mức 169 triệu tấn và 52 triệu tấn.
LÚA MÌ
- USDA ước tính tồn kho cuối kỳ lúa mì của Mỹ ở mức 798 triệu giạ, tăng so với mức 795 triệu giạ trong báo cáo tháng 12.
- Nhu cầu giống được dự báo ở mức 64 triệu giạ, tăng so với 62 triệu giạ trong tháng 12. Nhu cầu cho chăn nuôi và tiêu hao không đổi ở mức 120 triệu giạ.
- Tiêu dùng nội địa được ước tính đạt 2 tỷ giạ, tăng từ mức 1,998 tỷ giạ trong tháng 12. Xuất khẩu được dự báo ở mức 850 triệu giạ, không đổi so với tháng trước. Giá tại trang trại được ước tính ở mức 5,55 USD/giạ, giảm so với 5,60 USD trong tháng trước.
- Báo cáo Tồn kho Ngũ cốc cho thấy lượng lúa mì lưu trữ tính đến ngày 1/12 là 1,57 tỷ giạ, tăng 10% so với năm trước. Tồn kho tại các trang trại đạt 467 triệu giạ, tăng 16% so với năm ngoái. Tồn kho ngoài trang trại đạt 1,1 tỷ giạ, tăng 8%. Lượng sử dụng trong quý đạt 423 triệu giạ, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước.
- Toàn cầu, tồn kho cuối kỳ được ước tính ở mức 258,82 triệu tấn, tăng so với 257,88 triệu tấn trong tháng 12.
- Xuất khẩu của Nga được dự báo ở mức 46 triệu tấn, giảm so với 47 triệu tấn tháng trước. Xuất khẩu của Ukraine giảm nhẹ từ 16,5 triệu tấn xuống 16 triệu tấn.
- Sản lượng của Úc được dự báo ở mức 32 triệu tấn và Argentina ở mức 17,5 triệu tấn, không thay đổi so với tháng trước.
GIEO TRỒNG LÚA MÌ MÙA ĐÔNG
- Diện tích gieo trồng cho vụ thu hoạch năm 2025 ước tính ở mức 34,1 triệu mẫu, tăng 2% so với năm 2024 nhưng giảm 7% so với năm 2023. Utah dự kiến đạt mức diện tích gieo trồng thấp kỷ lục.
- Việc gieo trồng bắt đầu từ đầu tháng 9, và tính đến ngày 20/10, 73% diện tích lúa mì mùa đông dự kiến đã được gieo, thấp hơn 1% so với năm trước và thấp hơn 3% so với mức trung bình 5 năm.
- Toàn quốc, 46% diện tích lúa mì mùa đông đã nảy mầm tính đến ngày 20/10, thấp hơn 3% so với năm ngoái và 4% so với mức trung bình 5 năm.
- Tính đến ngày 24/11, việc gieo trồng đã hoàn tất 97% và diện tích nảy mầm tương đương mức trung bình 5 năm.
- Diện tích gieo trồng lúa mì cứng đỏ mùa đông được dự báo đạt 24 triệu mẫu, tăng 1% so với năm 2024. Montana và Texas có mức tăng diện tích lớn nhất, trong khi Kansas giảm.
- Diện tích lúa mì mềm đỏ mùa đông đạt 6,44 triệu mẫu, tăng 6% so với năm trước. Michigan và Ohio có mức tăng lớn nhất, trong khi Kentucky và Missouri giảm.
- Diện tích lúa mì trắng mùa đông đạt 3,64 triệu mẫu, tăng 3% so với năm 2024, không có bang nào dự báo giảm diện tích.
TỔNG KẾT:
Ngô (Corn)
- Với sản lượng ngô cho niên vụ 2024-25 được điều chỉnh giảm và tồn kho cuối kỳ thấp hơn dự báo, giá ngô có thể duy trì xu hướng tăng mạnh trong ngắn hạn sau khi ra tin. Sự giảm sút của sản lượng và dự báo xuất khẩu giảm sẽ tạo ra một số yếu tố hỗ trợ cho giá ngô, đặc biệt là khi nhu cầu nội địa và quốc tế vẫn cao. Tuy nhiên, sau đợt tăng mạnh này, giá có thể điều chỉnh lại khi các yếu tố cung cầu cân bằng hơn và thị trường trở lại ổn định. Vì vậy, trong ngắn hạn, ngô có thể tiếp tục duy trì xu hướng tăng, nhưng sẽ có sự điều chỉnh sau khi đạt đỉnh.
Đậu Tương (Soybeans)
- Mặc dù sản lượng đậu tương giảm, việc điều chỉnh tồn kho cuối kỳ và nhập khẩu gia tăng sẽ hỗ trợ giá đậu tương duy trì xu hướng tích cực. Với nhu cầu ổn định từ các thị trường tiêu thụ lớn, đặc biệt là Trung Quốc, giá đậu tương có thể tăng mạnh sau khi ra tin. Tuy nhiên, sự điều chỉnh có thể xảy ra nếu các yếu tố cung cầu dần trở nên ổn định. Dự báo tăng nhập khẩu và nghiền đậu tương cũng có thể làm giảm sự biến động mạnh trong ngắn hạn. Tóm lại, đậu tương có thể ghi nhận đợt tăng mạnh nhưng sẽ phải đối mặt với sự điều chỉnh khi các yếu tố cơ bản trở lại mức bình thường.
Lúa Mì (Wheat)
- Lúa mì ghi nhận một xu hướng trung lập sau khi ra tin, với mức tăng nhẹ vào thời điểm công bố dữ liệu, nhưng lại giảm xuống sau đó. Mặc dù tồn kho toàn cầu tăng nhẹ và nhu cầu xuất khẩu từ các quốc gia như Nga và Ukraine giảm, thị trường lúa mì vẫn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô như biến động đồng USD và tình hình chính trị ở các khu vực xuất khẩu chủ chốt. Giá lúa mì có thể tiếp tục duy trì trong khoảng biến động hạn chế trong thời gian tới, với những lần điều chỉnh tăng hoặc giảm không quá mạnh. Trong dài hạn, giá lúa mì sẽ chịu sự ảnh hưởng từ tình hình sản lượng và chính sách xuất khẩu của các quốc gia sản xuất lớn.